Thứ Hai, 17 tháng 8, 2015

Nếu không rèn luyện được kỹ năng làm chủ cảm xúc, con người dễ đối mặt nhiều hơn với những thất bại. Để giải thoát mình khỏi thói quen giận dữ điều trước tiên là cần hiểu rõ tác hại của nó. Khi nhận thức được tác hại cơn giận dữ, cần biết chủ động kìm chế cảm xúc của mình bằng những cách thích hợp, hướng suy nghĩ của mình theo cách tích cực và tự chịu trách nhiệm. Điều tệ hại nhất là để cho người khác điều khiển cảm xúc và hành động của mình.
Nhận biết được sự chuẩn bị bọc phát cơn tức giận của mình là bước đầu tiên trong việc đề phòng và kiềm chế cảm xúc tiêu cực đó giúp tránh phản ứng vội vàng. Mỗi phản ứng của con người là một sự lựa chọn, cần dành đủ thời gian đợi cho màn sương cảm xúc tiêu cực bọc phát tan hết để có thể thấy được toàn cảnh, giúp cho lý trí kịp vào cuộc để lựa chọn cách ứng xử thích hợp, trước khi cảm xúc cướp mất quyền lựa chọn đó. Tác giả chính của Tuyên ngôn độc lập (1716) và là Tổng thống Mỹ (1801-1809) Thomas Jefferson có lời khuyên: “Khi tức giận, hãy đếm đến mười trước khi phát ngôn; còn trong trường hợp rất tức giận, hãy đếm đến một trăm“.
Cần đặt mình vào vị trí của người khác để có cái nhìn khách quan hơn, tích cực hơn, từ đó kiềm chế cảm xúc và hành động của bản thân và cả của đối phương. Dù trong bất kì tình huống nào cũng cần bình tĩnh, linh hoạt để tìm phương án xử lý tối ưu nhất. Phật Thích Ca dạy rằng: “ Oán không diệt được oán, tình thương mới diệt được nó“.
Để cho cơn giận bọc phát dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều có hại. Lãnh đạo một công ty Nhật Bản nhận thấy nhân viên trong công ty thường hay nỗi giận và muốn khắc phục tác hại của nó bằng cách tạo điều kiện để cơn giận bọc phát tại một nơi vô hại. Họ xây một „Căn phòng trút giận“, để mổi khi có ai cảm thấy giân dữ thì có thể đến đó trút cơn giận cho hả, bằng cách quát tháo, đập phá. Thế nhưng ngược với mong muốn, tình hình nóng giận trong công ty càng trở nên trầm trọng hơn. Ngược lại, để giải quyết vấn đề trên hãng Kodak cho xây „Phòng khôi hài“, còn Công ty Digital Equipment thì phát động chương trình „Hãy biết cười“ và kết quả đạt được là làm tăng năng suất 15%. Điều đó cho thấy chỉ có thể dập tắt cơn giận bằng những biểu hiện tích cực như pha trò, kể chuyện vui, hài hước, nói nhỏ nhẹ, hay tạm tránh đi chỗ khác để làm giảm không khí căng thẳng.
Chuyện kể, một hôm đức phật Thích Ca đến một làng nọ và bị nhiều người trong làng chửi mắng, sỉ chục thậm tệ, nhưng người vẫn tỏ ra bình thản. Có người hỏi: vì sao trong tình cảnh như vậy mà ông không tức giận? Đức Phật trả lời: “Nếu những gì các ngươi muốn chỉ là xem thái độ của ta, thì các người đã đến quá trễ rồi. Nếu là 10 năm trước thì có lẽ ta sẽ phản ứng lại. Còn 10 năm trở lại đây thì ta đã không còn bị kẻ khác điều khiển nữa rồi. Ta không còn là nô lệ mà là chủ nhân của chính ta. Ta có thể làm những gì mình muốn, chứ không hành động dựa trên cảm xúc”.
Cherie Carter-Scott chỉ ra: “Tức giận chỉ làm cho bạn nhỏ nhen hơn. Còn tha thứ lại thúc đẩy bạn phát triển hơn cả chính bạn trước kia”. Khoan dung, bỏ qua lầm lỗi và thiếu sót của người khác, giúp trút được gánh nặng tinh thần và tự giải thoát mình khỏi những tác hại mà cơn giận có thể gây ra.
Khi để sự phẫn nộ bủa vây tâm trí, ta sẽ không đủ tỉnh táo để ứng xử một cách đúng mực, và đó cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự đổ vỡ của nhiều mối quan hệ ngoài xã hội và trong gia đình.
Việt Anh

Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012

Quyền lực đích thực ở đâu? 
        Quyền lực đích thực ở đâu? Ở trong mỗi chúng ta? Có đúng vậy không? Đã hàng ngàn đời nay từ bậc vua chúa, tổng thống, thủ tướng, các ông chủ những tập đoàn giàu có, đến các ông bố, bà mẹ, đến những người lao động bình thường đều mong có một chút quyền, một chút thôi, hay quyền lực vô biên! Đối với chúng ta quyền lực có ý nghĩa gì? Tại sao ai cũng tìm mọi cách để đạt cho được quyền lực? Cho dù không để ý... " Chúng ta luôn cố đạt cho được một địa vị có quyền lực bởi vì ta tin rằng quyền lực giúp ta làm chủ được cuộc sống, đem lại cho ta tự do và hạnh phúc - những gì ta mong muốn nhất" - mở đầu cuốn sách "Quyền lực đích thực" tác giả Thích Nhất Hạnh đã viết như vậy. Quyền lực, chuyên của muôn đời. Lịch sử đã chứng kiến biết bao tấm bi kịch do giành giật quyền lực mà dẫn đến những cuộc chiến tranh, sát phạt đẫm máu, huynh đệ tương tàn, đất nước bị phá hủy; từ đông sang tây, từ nam đến bắc, đã và đang không ngừng diễn ra... Quyền lực là gì? "Xã hội chúng ta được xây dựng trên một khái niệm rất hạn hẹp về quyền lực, đó là giàu có, sung túc, thành công nghề nghiệp, danh tiếng, sức khỏe, sức mạnh quân sự và quyền năng chính trị"... Nhiều người cố "chạy" cho được những chức này, chức khác "Muốn có quyền lực, muốn được danh tiếng hay giầu sang không phải là điều xấu. Nhưng phải nhớ rằng, chúng ta theo đuổi quyền lực hay dang tiếng, tiền tài là để được hạnh phúc. Nếu giàu có và quyền lực không hạnh phúc thì giàu có và quyền thế để làm gì?" - Thích Nhất Hạnh. Vấn đề là ở chỗ quyền lực để làm gì? Sử dụng quyền lực thế nào? Nó có mang lại hạnh phúc cho chính người có quyền lực hay không? Ai có quyện lực bằng tổng thống Mỹ? Tổng thống G.W. Bush chẳng hạn. Là tổng tư lệnh một lực lượng quân sự hùng mạnh bậc nhất là vị lãnh đạo quốc gia giàu có nhất thế giới... Nhưng, tôi tin chắc rằng dù với bao nhiều cái gọi là quyền lực trong tay, tổng thống vẫn cảm thấy bất lực và đau khổ... Tôi không nghĩ rằng tổng thống Bush... ngủ được yên giấc... Bởi cuộc chiến Iraq, bởi suy thoái kinh tế, bởi ... Triết gia Jean Jacques Rousean đã viết: Người mạnh nhất không bao giờ đủ mạnh để mãi mãi ở vị trí lãnh đạo, trừ khi người ấy chuyển đổi sức mạnh thành lẽ phải, và chuyển đổi sự khuất phục thành bổn phận. Đúng vậy. Sử dụng quyền lực không đúng sẽ nhận lấy sự chống đối từ phía những người dưới quyền khi một bên thâu tóm quyền lực và một bên không có quyền lực thì bên không có quyền lực có xu hướng nổi loạn. Sự cách biệt quá lớn giữa dân tộc này và dân tộc khác, giữa nhóm người này với nhóm người khác sẽ làm cho quyền lực bấp bênh. Ngay cả khi dường như được người khác chấp nhận thì người cầm quyền vẫn cảm thấy bất an. Ấy vậy, nhưng trong cuộc sống hàng ngày, nhiều người cố "chạy" cho được những chức này, chức khác, bởi vì theo suy nghĩ thường tình, có chức thì có quyền, có quyền thì có tiền, có tiền thì "mua tiên cũng được" - nghĩa là, có tất cả! Ở đâu cũng vậy, mục đích cuối cùng của con người là mưu cầu hạnh phúc. Hạnh phúc cho bản thân mình, cho gia đình mình, cho cộng đồng, cho muôn dân. Tác giả Thích Nhất Hạnh, trong cuốn sách "quyền lực đích thực" đã phân tích, lý giải, trình bày bằng những ví dụ sinh động, từ những con người đang sống hôm nay cho đến những dẫn dụ từ thời xa xưa. "Bhaddiya một quan chức cao cấp của Vương quốc Sacya. Nhưng ông đã từ bỏ tất cả để xuất gia. Một hôm, đang ngồi thiền, Bhaddiya bỗng thốt lên: Ôi, hạnh phúc của tôi... đến ba lần. Bụt gọi Bhaddiya tới và hỏi lý do. Ông trả lời: "Kính lạy thế tôn, khi con còn tại chức, con có rất nhiều quyền hành và tiền bạc. Con có những đội quân bảo vệ. Con muốn mua gì cũng được. Nhưng con không hạnh phúc vì con luôn sợ hãi. Còn là nạn nhân của ganh tị, sợ sệt, ghét bỏ và tham lam. Bây giờ, con không còn lo sợ hay phiền não nữa. Con không có gì để mất, không sợ bị ai sát hại, không cần vệ sỹ bảo vệ. Chưa bao giờ con được tự do và bình an như thế. Vì hạnh phúc quá nên con thốt lên như vậy". Khuyên ta từ bỏ tất cả để xuất gia ư! Không! Nếu kiếm lợi nhuận mà đem lại an vui cho mình và cho xã hội thì việc làm của ta không có gì sai trái. Ta có thể vẫn kiếm lợi nhuận mà không tổn hại, mà phát huy công bằng xã hội, đem lại hiểu biết và giảm thiểu khổ đau... Muốn thế, phải ngưng chạy theo quyền hành, tiền tài, danh vọng và sắc dục. Bốn thứ ấy đi liền với nhau. Bụt nói "Quá khứ đã qua ruồi, tương lại thì chưa đến, ta chỉ thực sự sống trong giây phút hiện tại". Nếu đánh mất hiện tại thì sẽ đánh mất cuộc sống! Nếu ta qua ưu tư về quá khứ, quá lo nghĩ về tương lai, để luôn đắm chìm trong sự bất an, ta sẽ không có hạnh phúc, dù là người có nhiều tiền, nhiều quyền, nhiều danh tiếng... Quyền lực đích thực là gì? Làm sao để có nó? Nó ở đâu? Đó phải chăng là những câu hỏi muôn đời sao ...? Quyền lực đích thực, phải là thứ quyền mang lại hạnh phúc cho bản thân ta, cho gia đình, cho cộng đồng, cho xã hội. Nó luôn gắn với sự an lành, nhất là trong xã hội hiện tại, trong sự quay cuồng của cuộc sống, sự khó khăn của nền kinh tế thế giới thời kỳ suy thoái và những khó khăn của nền kinh tế nước ta hiện nay.
 Dương Kỳ Anh

Thứ Hai, 31 tháng 5, 2010

Ngộ nhận về khoa học

<...>
PV: Ông cho rằng hiện nay, ở ta vẫn còn nhiều sự ngộ nhận và hiểu lầm về khoa học (KH). Vậy nguyên nhân sâu xa là ở đâu?

- KH không phải là sản phẩm của nền văn hoá phương Đông mà được du nhập từ bên ngoài vào. Ban đầu ta không hiểu rõ nó là điều bình thường. Nhưng tôi băn khoăn là chúng ta hội nhập với thế giới đã nhiều năm rồi, lẽ ra những ngộ nhận về KH đã phải được giải đáp từ lâu. Mục đích của hoạt động KH hướng đến những khám phá nhận thức mà hoàn toàn không có mục đích ứng dụng. Những khám phá vật lý học dẫn đến các phát minh công nghệ là hệ quả bất ngờ đối với chính các nhà vật lý.

Thành quả công nghiệp hoá nền kinh tế khiến cho cộng đồng các nhà KH được xã hội tôn vinh và Nhà nước quan tâm đến công việc của họ nhiều hơn; nhưng cũng chính vì vậy mà sinh ra sự lẫn lộn giữa KH và công nghệ (CN) khiến cho xã hội chỉ kỳ vọng ở các nhà khoa học sự đóng góp vào ứng dụng CN mà thôi.

Hoạt động KH thời nay đòi hỏi nhiều thiết bị tốn kém do ngân sách nhà nước gánh vác mà ở các chế độ dân chủ được xem là tiền đóng thuế của dân chúng. Các nhà KH phải thuyết phục công luận về tính hữu ích của dự án KH. Tuy nhiên, tính hữu ích của kết quả nghiên cứu KH là không thể "quy hoạch" trước được. Vì vậy đây là một tình thế nan giải. Tình thế này đòi hỏi các nhà KH đầu ngành phải có đạo đức nghề nghiệp rất cao để có thể duy trì hoạt động KH được trung thực.

Vấn đề khó khăn của VN lại có thực chất khác biệt và phức tạp hơn nhiều vì các nhà KH VN hoạt động nghề nghiệp như các viên chức nhà nước trong bộ máy sự nghiệp. Các thủ trưởng của họ là do Chính phủ bổ nhiệm xuống để quản lý họ giống như quản lý các viên chức hành chính. Các vị thủ trưởng ấy thường xuất thân từ các nhà KH, nhưng khi trở thành nhà quản lý thì buộc phải xa rời hoạt động nghề nghiệp vì họ không phải là thánh thần có ba đầu sáu tay để một lúc làm tốt được cả hai công việc. Họ chạy đi chạy lại giữa hai cộng đồng có bản chất nghề nghiệp rất khác nhau.

Rốt cuộc một số nhỏ thích nghi được với công việc quản lý và trở thành nhà quản lý chuyên nghiệp, danh hiệu nhà KH là chuyện của quá khứ. Họ được xã hội ngộ nhận như là nhà KH thành đạt. Số đông còn lại tiếp tục ở trong trạng thái nhập nhằng và tôi e rằng chính họ cũng không biết mình đang muốn gì.

Thời trước, chúng ta đã có một tầm nhìn xa khi gửi một lớp nhà KH sang Liên Xô đào tạo, với những tên tuổi như GS Nguyễn Văn Hiệu, GS Phạm Duy Hiển... Nhưng tại sao xã hội lại không cảm nhận được thành tựu mà thế hệ vàng này mang lại, thưa ông?

- Các nhà KH thế hệ chúng tôi không tạo ra được thành tựu gây ấn tượng cho xã hội vì hai lý do. Một là thành tựu mà xã hội kỳ vọng nơi các nhà KH - vốn còn rất non trẻ trong nghề nghiệp - vừa không hợp lý lại vừa không đúng chỗ. Xã hội kỳ vọng các nhà KH đem đến các ứng dụng công nghệ để cải thiện đời sống vật chất cho xã hội.

Nhưng đây là trách nhiệm của những người chi phối nền kinh tế chứ không phải của các nhà KH. Hoạt động KH mang tính chất văn hoá là chủ yếu. Tuy nhiên, các nhà KH thế hệ chúng tôi cũng có trách nhiệm rất lớn trong chuyện này. Chúng tôi đã không nhận thức đúng được thực chất của hoạt động KH. Chúng tôi đã rất cố gắng học tập chuyên môn và nhiều người cũng đạt được những thành tựu nhất định trong nghiên cứu khoa học.

Khó khăn là KH hiện đại bị chia nhỏ thành các lĩnh vực chuyên sâu, khiến cho những người giỏi nhất trong chúng tôi cũng chỉ thấy cây mà không thấy rừng. Chúng tôi đã không ý thức được một cách minh triết các đặc thù của hoạt động KH để truyền đạt cho thế hệ tiếp sau. Nhiều người trong chúng tôi chân thành mong muốn đáp ứng kỳ vọng "ứng dụng công nghệ" của xã hội dưới mỹ từ "đem KH vào cuộc sống". Họ rời bỏ công việc KH theo chuyên ngành được đào tạo để lao vào các công việc vốn thuộc chuyên ngành khác. Những thất bại của họ không đáng bị chê trách, nhưng phải là những bài học để suy ngẫm.

Chúng tôi đã không nhận thức được rằng nghiên cứu KH chính là một phương diện của bản thân cuộc sống để nhìn ra trách nhiệm của thế hệ các nhà KH đầu tiên là chuẩn bị cho thế hệ tiếp theo trong việc xây dựng nền KH quốc gia. Dưới các áp lực xã hội chúng tôi đã tự tha hoá mình theo những cung cách khác nhau.

Xin ông nói rõ thêm về các nhà KH thế hệ của ông đã hình thành và hoạt động ra sao?

- Trong hoàn cảnh chiến tranh, chính phủ nước ta lúc đó đã có chủ trương sáng suốt là gửi một số đông học sinh tốt nghiệp phổ thông sang một số nước để đào tạo đại học và sau đại học với tầm nhìn xa cho việc xây dựng đất nước sau chiến tranh. Năm 1960, nhóm sinh viên đông đảo đầu tiên được gửi đi có số lượng lên đến hàng ngàn. Cần nhớ rằng lúc đó trên toàn miền Bắc số trường trung học có đủ bậc học cho đến tú tài còn đếm trên đầu ngón tay.

Trước đó đã có rải rác một số học sinh được gửi đi đào tạo, nhưng số lượng không đông như vậy. Việc đào tạo như thế được duy trì trong nhiều năm, nhờ đó mà vào khoảng năm 1970, nước ta đã thành lập được một số viện nghiên cứu như Viện Vật lý, Viện Toán học..., các trường đại học đã có một đội ngũ giảng viên được đào tạo bài bản. Vì sao dư luận xã hội hôm nay lại có nhiều ý kiến chê trách đội ngũ này đã không để lại được một di sản có giá trị bền vững cho thế hệ tiếp theo?

Đây là câu hỏi cần phải trả lời một cách cẩn trọng và nghiêm túc, không phải nhằm tìm xem kẻ nào có tội, mà để rút kinh nghiệm cho việc kiến tạo nền KH tương lai. Điều cần thiết là phải hiểu đầy đủ những đặc thù lịch sử của thời kỳ đó.

Đáng tiếc thế hệ ngày nay có vẻ như không hiểu biết gì nhiều về hoàn cảnh lịch sử của thế hệ chúng tôi, hình như họ cứ tưởng rằng chúng tôi đã trải qua cuộc sống trong những điều kiện giống như họ hiện nay. Bức tranh lịch sử về xã hội thời chúng tôi có vẻ như sẽ đi vào quên lãng, giống như thế hệ chúng tôi cũng đã rất thiếu hiểu biết về thời kỳ Pháp thuộc.

Xin cảm ơn giáo sư.
GS Nguyễn Văn Trọng

Thứ Năm, 25 tháng 2, 2010

Thế nào là TRẺ

Xin giới thiệu bài thơ Youth của Samuel Ullman:

Trẻ

Trẻ không phải là thể trạng mà là trạng thái tâm lý. Đó không phải là việc môi đỏ, má hồng hay đôi chân dẻo dai, mà là sự hăng say, ước mơ cháy bỏng và cảm xúc dạt dào. Nó là sự tươi mát của suối nguồn cuộc sống.

Trẻ nghĩa là khi lòng can đảm vượt qua nỗi rụt rè, thích phiêu lưu hơn sự an nhàn. Người ta không già đi bởi năm tháng mà chỉ già đi vì từ bỏ lý tưởng của mình. Năm tháng có thể làm da nhăn, nhưng tâm hồn chỉ hằn nếp khi bạn không còn lòng nhiệt tình. Lo ngại, ngờ vực, tự ti, sợ hãi và chán chường - là những thứ có thể làm cho người trẻ trở nên già.

Dù sáu mươi hay mười sáu, trong trái tim mỗi người đều có chỗ cho sự ngưỡng mộ điều kỳ diệu, sự háo hức trẻ thơ với điều sắp tới, và sự thú vị với trò chơi cuộc sống.

Chừng nào trái tim bạn còn nhận được tín hiệu của cái đẹp, sự hi vọng, niềm vui, nhận chân được sức mạnh của con người và trời đất thì bạn vẫn còn trẻ.

Khi trái tim bạn đóng kín bởi sự bi quan và nghi kỵ thì bạn đã già, dù ở tuổi hai mươi. Còn khi trái tim bạn vẫn rộng mở đón nhận tín hiệu lạc quan thì bạn vẫn trẻ dù ở tuổi tám mươi.

P.UYÊN

Quê mình trong “Mùa xuân đầu tiên"của Văn Cao


Trần Thị Trường

(Toquoc)- Mỗi độ xuân về, nghe bài hát đó tôi vẫn thấy cái cảm giác của “mùa xuân đầu tiên” trong lòng mình và không thể không vang lên: “Từ nay người biết quê người...Từ nay người biết thương người...”

Năm 1981, trong lúc chúng tôi chuẩn bị đón Tết cổ truyền Việt Nam ở Sofia, thủ đô của nước Bulgari xinh đẹp với một nỗi nhớ nhà khôn cùng thì các bạn người Bulgari gõ cửa, bước vào. Các bạn mang theo cây đàn măng-đô-lin và ác-coóc-đê-ông để cùng chia sẻ cuộc liên hoan đón chào năm mới của Việt Nam.

Thật ngạc nhiên, khi thấy các bạn có một tập sách nhạc (của NXB Mascơva ấn hành năm 1977), trong đó có một bài của tác giả Việt Nam, đó chính là “Mùa xuân đầu tiên” của nhạc sĩ Văn Cao (sau này tôi mới biết, Văn Cao viết bài hát này năm 1976 và chưa được phổ biến ở trong nước).

Trong tiếng đàn của những người bạn chúng tôi hát:
“Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường mùa vui nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Với khói bay trên sông gà đang gáy trưa
Bên sông một trưa nắng vui cho bao tâm hồn... ”

Nếu ai đã từng đi xa quê hương, từng lận đận chiến tranh, từng không được đón những mùa xuân như mơ ước của lòng, sẽ thấy rất rõ ý nghĩa của “mùa bình thường”. Không chỉ chúng tôi, những người Hà Nội xa quê mà quây quần trong thời khắc chuyển mùa, của giao thừa ấy còn có những người trở về sau cuộc chiến (1975) của Việt Nam và những người Nga, thế hệ sau còn mang đậm dấu ấn cuộc chiến 1917...

Những hình dung của những người bạn ấy có thể không giống như hình dung của chúng tôi về “gà đang gáy trưa” nhưng có vẻ như hoàn toàn trùng hợp cảm xúc với những thi ảnh “khói bay trên sông”... “dặt dìu mùa xuân theo én về”...

Chúng tôi lại cùng hát:
“Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Người mẹ nhìn đàn con nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Nước mắt trên vai anh giọt rơi ấm đôi vai anh
Niềm vui phút giây như đang long lanh...”

Một điệu Valse của niềm vui mùa xuân có vẻ như đặc biệt nhất của người nhạc sĩ- thi sĩ từng viết Quốc ca này. Có lẽ sự nghiệp Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước đã đem tới tâm hồn Văn Cao một mùa xuân như ông từng mong mỏi.

Trong sự nghiệp âm nhạc của ông, người ta có cảm giác, cảm hứng nghệ thuật hầu hết được bắt nguồn từ mùa thu mặc dù ông có “Bến xuân”, có “Sông Lô” nhắc đến xuân: “...Mùa xuân tới, nước băng qua ngàn, nước in ven bờ xanh bóng tre”, có “Serénatte mùa xuân” với“ ... lắng nghe mùa xuân. Tiếng chim nào vui. Bao mùa xuân đã qua. Nay mùa xuân tới đây...” và “Trong màu xuân đời tôi”... nhưng mùa thu vẫn in dấu sâu đậm hơn trong thơ ca và âm nhạc của nghệ sĩ đa tài này. Tuy nhiên, “Mùa xuân đầu tiên” tràn ngập tiếng lòng ông.

“Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên
Ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm
Từ đây người biết quê người
Từ đây người biết thương người
Từ đây người biết yêu người....”

Giai điệu như thể nói thay lời, những người bạn Nga và Bulgari cùng hát tiếng Việt với chúng tôi, rồi chúng tôi cùng hát tiếng Nga với họ. Mắt nhìn mắt, tay nắm tay chúng tôi như say trong khí xuân, sắc xuân và trong tình yêu thương đầm ấm. Một anh bạn vẽ lại bức ảnh chụp của Văn Cao bằng một nét bút sắt. Rất tài tình, Văn Cao qua nét vẽ của anh, gầy gò râu tóc nhưng có điều gì đó vừa tiên phong đạo cốt của bậc chính nhân quân tử vừa thánh thần dịu hiền.

Nỗi nhớ nhà vơi đầy. Mùa xuân đầu tiên của Văn Cao trở nên mùa xuân đầu tiên trong lòng mỗi người hát nó, tùy theo tâm sự và nỗi trải nghiệm riêng của từng cá thể có mặt trong lúc đón xuân này.

8 năm sau, khi tôi đã về sống ở Hà Nội đến nghe “Đêm nhạc Văn Cao” ở một Nhà hát nhỏ nằm trên phố Hàng Bạc và cảm nhận “Mùa xuân đầu tiên” với nhiều cảm xúc khác nhau, trong đó có nỗi nhớ mùa xuân ở phương trời tuyết trắng, nhớ những người mắt rưng rưng hát tiếng Việt ca từ của Văn Cao.

Và cũng năm ấy, tôi thấy NXB Trẻ xuất bản tuyển nhạc Văn Cao trong tập “Thiên Thai” có bài “Mùa xuân đầu tiên”. Thế là sau 12 năm kể từ khi nó được sinh ra cho đến khi phổ biến rộng rãi cùng với nhiều bài hát nổi tiếng khác của nhạc sĩ Văn Cao song mỗi độ xuân về nghe bài hát đó tôi vẫn thấy cái cảm giác của “mùa xuân đầu tiên” trong lòng mình và không thể không vang lên “Từ nay người biết quê người...Từ nay người biết thương người...

Thứ Ba, 18 tháng 8, 2009

Cá tính

Hay là do cá tính người Việt mình thích chọi nhau, chọi dế chọi gà chọi trâu?

Tôi không tin thế. Tất nhiên, 80 triệu người là 80 triệu ý kiến khác nhau. Đến hai vợ chồng còn có những bất đồng, trái ngược quan điểm, xích mích thường xuyên. Cái hay nhất của cuộc sống là mỗi người riêng biệt một cá thể, độc lập những suy nghĩ. Chỉ có điều chúng ta nên tập bày tỏ thái độ tôn trọng ý kiến người khác, để họ sẽ tôn trọng ý kiến của mình mà chưa cần luận đến chuyện đúng sai. Đúng sai thường không phơi ra ngay, chỉ lộ diện sau những cuộc tranh luận dài, có lúc kéo qua nhiều năm tháng, nhiều đời người. Với lại, bao giờ cũng thế, ta chỉ có thể tiến được đến gần gần sự thật thôi.
Quan trọng là tạo môi trường để nếp suy nghĩ mới phát triển. Yên tâm đi, nếp suy nghĩ mới không hoàn toàn phủ nhận nếp suy nghĩ cũ. Dân làm khoa học chúng tôi có cái hay là nó dạy cho con người ta tính đa nghi. Tính đa nghi trong đời sống thường được hiểu theo nghĩa xấu, nhưng trong khoa học phải sẵn bản lĩnh đểỷ ngờ vực tất cả. Từ lời của CacMac đến lý thuyết của Einstein… Không có năng lực, thiếu gan phản biện vấn đề, xã hội không thể phát triển lành mạnh được....
(TS Quang A)

Cực lạc và địa ngục

Trước kia có vị đại từ thiện, một hôm trong mộng được Diêm Vương dẫn đi thăm quan địa ngục, trong địa ngục phát hiện mọi người đang cãi nhau. Vốn là ở địa ngục có một cái bàn lớn, trên bàn bày một số món ăn, mỗi người cầm một cái thìa rất dài. Do thìa quá dài nên không có cách nào đưa thức ăn vào miệng, mà dùng tay thì không với được thức ăn nên mỗi người đều hí hoáy nghĩ cách đưa thức ăn vào miệng với cái thìa dài trong tay. Nguyên nhân cãi nhau là thao tác chiếc thìa quá dài mà va chạm với nhau.

Tiếp theo, ông ta lại lên thăm viếng cõi cực lạc. Thật kỳ lạ, quang cảnh nơi đây không khác gì địa ngục, cũng một chiếc bàn lớn, với các món ăn và những chiếc thìa rất dài. Điểm duy nhất khác nhau là mọi người ở đây ăn uống với nhau một cách vui vẻ. Tại sao vậy? Vì mọi người dùng chiếc thìa rất dài đó để xúc thức ăn cho nhau, do đó, mọi người đều có thể ăn được, không ai tranh chấp hay gây khó dễ.

Thiên Đàng và Địa Ngục không có gì khác biệt , nhưng nó khác nhau chỉ tại vì con người đã sống và đối xử với nhau như thế nào, chúng ta sống với nhau bằng tình yêu thương,quan tâm ,chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau thì lúc đó chúng ta đang sống trong Thiên Đàng, còn nếu chúng ta chỉ biết nghĩ cho riêng mình, chỉ biết ganh ghét nhau , không biết giúp đỡ nhau, thì chẳng khác nào chúng ta đang sống trong địa ngục. Vậy qua câu chuyện này, chúng ta hãy bắt đầu thay đổi cách sống, để chúng ta có thể sống trong Thiên Đàng tình yêu,tuy chúng ta nghĩ mình đang chịu mất mát thiệt thòi khi nghĩ và quan tâm cho người khác, nhưng thật ra, chúng ta đang nhận lại tất cả và còn nhiều hơn chúng ta nghĩ khi chúng ta biết trao ban và giúp đỡ lẫn nhau. Còn khi chúng ta tích trữ cho bản thân mà không hề biết chia sẻ, thì chúng ta đang mất dần bản tính lương thiện của con người , chúng ta đang mai mọt dần trong sự ích kỷ và hạnh phúc sẽ không bao giờ đến với chúng ta